78 năm Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội Việt Nam

78 năm trước, ngày 6/1/1946,

hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể nhân dân Việt Nam nô nức đi bỏ phiếu, lựa chọn người đại diện cho mình vào ốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Từ

mốc lịch sử đó, Quốc hội Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, đạt được những thành tựu nổi bật trong hoạt động lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, góp phần to lớn vào thành tựu chung của công cuộc đổi mới, nâng cao vai trò, vị thế của

Việt Nam

trên trường quốc tế.

Toàn dân đi bầu cử. Ảnh: T.L

Ngày 08/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 14-SL quy định mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội và ghi rõ: Chiểu theo Nghị quyết của Quốc dân Đại hội ngày 16, 17/8/1945 tại khu giải phóng, ấn định rằng nước Việt Nam sẽ theo chính thể dân chủ cộng hòa và Chính phủ nhân dân toàn quốc sẽ do một Quốc dân đại hội bầu theo lối phổ thông đầu phiếu cử lên; tiếp theo đó, ban hành Sắc lệnh số 39-SL ngày 26/9/1945 về thành lập Ủy ban dự thảo thể lệ cuộc Tổng tuyển cử; Sắc lệnh số 51-SL ngày 17/10/1945 quy định thể lệ cuộc Tổng tuyển cử phải thực hiện theo lối phổ thông đầu phiếu, bầu cử trực tiếp và bỏ phiếu kín; Sắc lệnh số 71-SL ngày 02/12/1945 bổ khuyết Điều 11 chương V của Sắc lệnh số 51-SL nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người ứng cử. Công tác chuẩn bị cho Tổng tuyển cử diễn ra rất khẩn trương trong điều kiện thù trong, giặc ngoài; trong bối cảnh nền kinh tế, xã hội hết sức khó khăn. Cuộc Tổng tuyển cử lúc đầu được dự kiến là ngày 23/12/1945, nhưng để thực hiện chủ trương thống nhất và hòa giải, có thêm thời gian cho công tác chuẩn bị và các ứng cử viên có điều kiện nộp đơn, đi vận động tranh cử. Ngày 18/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh hoãn cuộc Tổng tuyển cử đến ngày chủ nhật, 06/01/1946.

Với niềm tin vào Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã một lòng ủng hộ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của dân tộc. Nhiều người có tài, có đức đã tự ứng cử hoặc được quần chúng giới thiệu ra ứng cử. Danh sách các cử tri và ứng cử viên được niêm yết công khai. Quần chúng sôi nổi trao đổi, tranh luận, chất vấn nhằm lựa chọn được những người xứng đáng nhất làm đại diện của mình, hạn chế tới mức tối đa những phần tử cơ hội lợi dụng dịp Tổng tuyển cử để tranh giành quyền chức. Tại các địa phương, Nhân dân ta nô nức kéo về trụ sở chính quyền các tỉnh thành, huyện lỵ mít tinh hoan nghênh Tổng tuyển cử và ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh. Không chỉ ở các tỉnh thành mà ở cả các bản làng xa xôi hẻo lánh cũng tràn ngập không khí, tưng bừng, rộn ràng tiếng cồng chiêng cổ động cho Tổng tuyển cử. Đến cả kiều bào xa xứ ở các nước như Pháp, Thái Lan, Lào… cũng tổ chức mít tinh, hội họp, gửi điện tín, ủng hộ Tổng tuyển cử. Có thể nói, cả dân tộc như hừng hực khí thế và sức sống trước ngày hội của non sông.

Ngày 05/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu, trong đó có đoạn: “Ngày mai, là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình”. Hưởng ứng lời hiệu triệu thiêng liêng của Người, ngày 6/1/1946, với tinh thần yêu nước nồng nàn và khí thế hào hùng của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam từ Bắc đến Nam, trên khắp mọi miền của Tổ quốc nô nức tham gia bầu cử, bất chấp sự phá hoại điên cuồng của các thế lực xâm lược và chống đối. Tổng số cử tri đi bỏ phiếu đạt tỷ lệ 89%, trừ một số nơi phải bầu bổ sung còn tuyệt đại đa số các địa phương chỉ bầu một lần. Cuộc Tổng tuyển cử bầu được 333 đại biểu, trong đó có 57% số đại biểu thuộc các đảng phái khác nhau; 43% số đại biểu không đảng phái; 87% số đại biểu là công nhân, nông dân, chiến sỹ cách mạng; 10 đại biểu nữ và 34 đại biểu dân tộc thiểu số. Trong thành phần của Quốc hội có đại biểu đại diện cho cả ba miền Bắc - Trung - Nam, các giới từ những nhà cách mạng lão thành, thương gia, nhân sĩ trí thức và các nhà hoạt động văn hóa, đến đại biểu các thành phần tôn giáo, những người không đảng phái và các đảng phái chính trị.

Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của Việt Nam năm 1946 được tiến hành theo những nguyên tắc dân chủ, tiến bộ nhất, đó là: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín đã hoàn toàn thắng lợi. Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Thắng lợi đó là một mốc son đánh dấu bước phát triển nhảy vọt đầu tiên về thể chế dân chủ của nước Việt Nam.

Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đánh dấu bước trưởng thành của Nhà nước cách mạng Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ đất nước ta có một Quốc hội, một Chính phủ thống nhất, một bản Hiến pháp tiến bộ và một hệ thống chính quyền hoàn toàn đầy đủ danh nghĩa về mặt pháp lý để đại diện cho nhân dân Việt Nam về đối nội, đối ngoại.

Qua 78 năm hình thành và phát triển, Quốc hội Việt Nam không ngừng lớn mạnh, ngày càng thực hiện tốt hơn chức năng là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện các quyền lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Quốc hội khóa I đã thông qua Hiến pháp 1946 là bản hiến pháp dân chủ, tiến bộ, đạo luật cơ bản đầu tiên đặt nền móng cho việc xây dựng thể chế Nhà nước Cách mạng trong thời đại mới và thông qua Hiến pháp 1959, tạo nền tảng pháp lý cho công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Quốc hội các khóa II, III, IV và V được tổ chức theo Hiến pháp 1959, đã có những đóng góp rất quan trọng trong việc xây dựng, khôi phục kinh tế ở miền Bắc để trở thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến miền Nam, cùng với việc đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, góp phần quan trọng làm nên thắng lợi của Cuộc tổng tiến công, nổi dậy và đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Quốc hội khóa VI đổi tên nước thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và thông qua bản Hiến pháp 1980, Hiến pháp của thời kỳ cả nước thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Quốc hội khóa VII, khóa VIII được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp 1980, đã góp phần quan trọng trong việc đưa đất nước vượt qua khó khăn của thời kỳ bị cấm vận, bắt đầu công cuộc đổi mới đất nước. Trong đó, Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp 1992, thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tạo hành lang pháp lý cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quốc hội khóa IX, X được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp 1992, đã có những đổi mới mạnh mẽ với nỗ lực cao trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Các khóa Quốc hội XI, XII và XIII là Quốc hội của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng; hoạt động lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng, từng bước được đổi mới, ngày càng thực chất, hiệu quả hơn, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đặc biệt, Quốc hội khóa XIII ban hành Hiến pháp 2013, thể chế hóa các quan điểm, phương hướng, nội dung phát triển trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta, đánh dấu một bước phát triển mới trong lịch sử lập hiến, lập pháp và chủ động hội nhập quốc tế.

Kỷ niệm 78 năm Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội Việt Nam (06/01/1946 - 06/01/2024) là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ôn lại lịch sử hình thành và phát triển; ghi nhận những thành tựu và rút ra những bài học kinh nghiệm mà Quốc hội Việt Nam đã đạt được góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân về Quốc hội và hoạt động của Quốc hội. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân; sự hợp tác và giúp đỡ của bạn bè quốc tế; sự ủng hộ và giám sát của nhân dân, Quốc hội tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng hào hùng của dân tộc, luôn là hiện thân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xứng đáng là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

P.V (T/h)