Đánh giá tác động của xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế

Một trong những yếu tố quan trọng tác động đến tăng trưởng kinh tế là xuất khẩu

Kết quả thực nghiệm cho thấy, cả trong ngắn hạn và dài hạn, xuất khẩu có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Tỷ giá thực đa phương là kênh truyền dẫn tác động của xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế.

Đặt vấn đề

Tăng trưởng kinh tế bền vững luôn là mục tiêu hàng đầu của mỗi quốc gia nhằm phát triển kinh tế-xã hội toàn diện và nâng cao mức sống của người dân. Một trong những yếu tố quan trọng tác động đến tăng trưởng kinh tế là xuất khẩu (Phạm Thị Thanh Bình, 2016).

Nhiều nghiên cứu xác nhận vai trò động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của xuất khẩu nhưng cũng có những nghiên cứu lại bác bỏ vai trò này của xuất khẩu. Các nghiên cứu trên thế giới đã sử dụng khá nhiều mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM) cũng như mô hình hiệu chỉnh sai số vector (VECM) trong đánh giá các tác động của xuất khẩu đối với tăng trưởng kinh tế (Arnade và Vasavada, 1995; Lim và Ho, 2013; Shahbaz và Rahman, 2014; Dritsaki, 2014; Majid và Elahe, 2016; Tsitourasa và Nikas, 2016). Hầu hết các mô hình đều cho kết quả là xuất khẩu tác động tích cực đến tăng, trưởng kinh tế. Cũng có kết quả cho rằng có mối quan hệ dài hạn và ngắn hạn phi tuyến tiềm năng giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế (Lim và Ho, 2013).

Những kết luận không hoàn toàn thống nhất về tác động của xuất khẩu tới tăng trưởng kinh tế khiến cho chủ đề này, cho tới nay, vẫn còn mang tính thời sự, đồng thời khuyến khích các nghiên cứu đi tìm lời giải đáp cho vấn đề này. Nghiên cứu này, thông qua mô hình VECM để ước lượng mối quan hệ trong ngắn hạn và dài hạn giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, bên cạnh đó, xem xét tác động của nhân tố truyền dẫn là tỷ giá và các biến ngoại sinh khác.

Tổng quan lý thuyết tác động của xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế

Nghiên cứu này được kế thừa và phát triển từ các nghiên cứu trước đây, nhằm đánh giá xuất khẩu tác động đến tăng trưởng kinh tế thông qua kênh truyền dẫn là tỷ giá thực đa phương. Nghiên cứu thực nghiệm dữ liệu đa quốc gia của Tekin (2012),

Hye, Wizarat và Lau (2013), Majid và Elahe (2016) Tsitourasa và Nikas (2016); dữ liệu quốc gia riêng lẻ của Mishra (2011), Dritsaki (2013, 2014), Shahbaz và Rahman (2014) Nguyễn Quang Hiệp (2014, 2016), Shafiullah, M., Selvanathan, S., Naranpanawa, A. (2017) Ahmad, D., & Ahmad, J. (2018) cùng quan điểm rằng, có mối quan hệ tương hỗ, nhân quả tích cực giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế. Tsitourasa và Nikas (2016), Sothan (2016), Goh, Sam và McNown (2017) cho thấy mối quan hệ dài hạn giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế.

Tỷ giá thực đa phương chính là biến trung gian trong mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế, đo lường sức cạnh tranh giá hàng hóa. Các nghiên cứu của Bakari và Mabrouki (2017) tại Panama, Thirunavukkarasu và Achchuthan (2014) tại Sri Lanka cũng chỉ ra rằng, xuất khẩu và nhập khẩu ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Tan, B. W., và Tang, C. F. (2016) bên cạnh việc chỉ ra thương mại (xuất nhập khẩu) tác động tích đến tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN còn nhấn mạnh vai trò của lãi suất cho vay ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế ở các nước này.

Bên cạnh đó, các nghiên cứu trước cũng xem xét mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế thông qua các kênh như đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và lao động (LA) (Tan, B. W., & Tang, C. F. (2016) Tekin (2012), Nguyễn Quang Hiệp (2016)). Các biến đưa vào nhằm phân tích đa chiều các biến tác động đến tăng trưởng kinh tế và cải thiện chất lượng mô hình. Mô hình có dạng như sau:

LGDP= β0+ β1LEXP+ β2REER+ β3LFDI+ β4LLA +εi

Trong đó, GDP là tăng trưởng GDP hằng năm, EXP là giá trị xuất khẩu, FDI là đầu tư trực tiếp nước ngoài, LA là tổng số lao động làm việc trong nền kinh tế, REER là tỷ số tỷ giá thực đa phương của Việt Nam đối với các đồng tiền các đối tác thương mại chủ yếu (Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Australia, Đức và Pháp).

Ký hiệu L là logarit cơ số tự nhiên.

Kết quả nghiên cứu

Kiểm định đồng liên kết Cointegrated Test của Johansen (1991)

Kết quả kiểm định đồng liên kết phức tạp của Johansen (1998) (bảng 1) cho thấy, giá trị kiểm định Trace statistic và kiểm định Max statistic lớn hơn giá trị tới hạn ở dòng đầu tiên, vậy có thể bác bỏ giả thuyết r = 0, và r=1. Điều đó có nghĩa là tồn tại 02 véc tơ đồng liên kết giữa các biến trong mô hình ở mức ý nghĩa 5%. Như vậy, các biến trong mô hình thỏa mãn điều kiện của mô hình VECM khi có mối tương quan dài hạn và sử dụng mô hình VECM phân tích mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế Việt Nam là hợp lý.

Phân tích mô hình VECM

Kết quả cho thấy, hệ số R2 hiệu chỉnh= 0,9829, nguyên nhân có thể do có hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến. Tuy nhiên, hầu hết các biến độc lập trong mô hình đều có ý nghĩa thống kê. Có thể nhận định rằng các biến độc lập giải thích tốt sự thay đổi của biến phụ thuộc trong các mô hình hồi quy đánh giá mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế Việt Nam.

Kết quả hồi quy mô hình VECM cho thấy, trong ngắn hạn và dài hạn, biến đầu tư nước ngoài và biến tỷ giá thực đa phương đều có tác động đến cả tăng trưởng kinh tế lẫn xuất khẩu ở mức ý nghĩa 5%. Biến xuất khẩu có ảnh hưởng đến tăng trưởng GDP cả trong ngắn hạn và dài hạn với mức ý nghĩa 10%, tuy nhiên dấu của các ước lượng lại không giống như kỳ vọng, biến lao động không có ý nghĩa thống kê, như đã nói ở trên có thể do đa cộng tuyến, nên sẽ phân tích rõ hơn qua mô hình phản ứng xung như Hình 1.

Việc phân tích phản ứng xung sẽ cho thấy phản ứng của một biến khi có sự tăng lên một đơn vị của một biến khác. Như vậy, khi có một sự thay đổi ở tỷ giá thức đa phương, ngay lập tức biến xuất khẩu có phản ứng ở chu kỳ thứ nhất, sau đó tăng lên và đạt đỉnh ở chu kỳ thứ 4 rồi điều chỉnh dần và tăng trưởng ổn định.

Qua mô hình phản ứng xung cũng thấy rõ quan hệ giữa giá trị xuất khẩu và tăng trưởng GDP. Khi có một cú sốc từ xuất khẩu, lập tức GDP phản ứng ngay trong chu kì thứ nhất. Quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng GDP dường như không có độ trễ, điều này có thể giải thích được vì xuất khẩu ở nước ta đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng GDP.

Kết quả nghiên cứu ủng hộ các các nghiên cứu gần đây như Mishra (2011), Dritsaki (2013), Shahbaz và Rahman (2014). Kết quả nghiên cứu này phù hợp với lý thuyết lực hấp dẫn trong thương mại quốc tế được Tinbergen (1962) và Poyhonen (1963) cho rằng giá trị xuất khẩu hàng hóa có quan hệ cùng chiều với quy mô nền kinh tế (đo lường bằng giá trị GDP).

Kết luận

Bằng việc sử dụng mô hình VECM, nghiên cứu đã phân tích mối quan hệ giữa kim ngạch xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam với các dữ liệu kinh tế vĩ mô kéo dài qua các năm từ ngày 01/01/1999 đến ngày 31/12/2018 (20 năm). Dựa trên kết quả thu được ở trên, có thể kết luận như sau:

Kết quả mô hình cho thấy, biến xuất khẩu và nhập khẩu có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Có thể nhận định rằng, đối với nước ta, thương mại đóng vai trò lớn trong việc phát triển hệ thống tài chính và tự do hóa tài chính, tự do hóa tài chính sẽ là động lực để phát triển kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.

Trong lĩnh vực thương mại, Việt Nam đã gia nhập WTO, ký kết các hiệp định thương mại tự do, hiệp định thương mại song phương, hiệp định tránh đánh thuế hai lần, hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Đối với hoạt động xuất khẩu, Việt Nam đang xuất khẩu ra thế giới với các sản phẩm chủ lực như: Sản phẩm dệt may, thủy sản, gạo, cà phê, cao su, gỗ và sản phẩm gỗ, than đá, tôm đông lạnh.

Trong đó, ngành hàng dệt may và thủy sản chiếm tỷ trọng lớn nhất với hơn 20% trong tổng giá trị xuất khẩu, tiếp theo là ngành hàng gỗ và sản phẩm gỗ, cà phê và lúa gạo (Tổng cục Thống kê, 2019). Thị trường xuất khẩu chủ yếu là thị trường Nhật Bản, Hoa Kỳ và Trung Quốc. Hoạt động này ngày càng gia tăng về quy mô và tốc độ tăng trưởng cao.

Bên cạnh những thuận lợi thì hoạt động xuất khẩu còn gặp không ít khó khăn, như hàng xuất khẩu Việt Nam vẫn chủ yếu là các mặt hàng thô và sơ chế, hàm lượng công nghệ trong các mặt hàng công nghiệp còn thấp, năng lực cạnh tranh không cao, ngành công nghiệp phụ trợ yếu kém, giá trị gia tăng hàng xuất khẩu thấp, lệ thuộc vào một số thị trường như Trung Quốc gây lo ngại về rủi ro đối với thương mại quốc tế. Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu còn đối mặt với rủi ro pháp lý trong cạnh tranh thương mại quốc tế và khó khăn trong thâm nhập thị trường.

Tương tự như xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu ngày càng gia tăng về tốc độ cũng như quy mô, hoạt động nhập khẩu đang lấn át hoạt động xuất khẩu cả về quy mô và giá trị. Trong những năm gần đây, mặc dù nhập siêu có xu hướng giảm dần nhưng không bền vững, hàng nhập khẩu chủ yếu là đầu vào sản xuất, phản ánh ngành công nghiệp phụ trợ yếu kém, giá trị gia tăng hàng xuất khẩu thấp. Khu vực doanh nghiệp trong nước nhập siêu quy mô lớn phản ánh năng lực cạnh tranh và khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các doanh nghiệp trong nước vẫn còn yếu, lệ thuộc vào một số thị trường như Trung Quốc gây lo ngại về rủi ro đối với thương mại quốc tế, trong khi Việt Nam chưa tận dụng được lợi thế từ các hiệp định thương mại để cải thiện cán cân thương mại.

Những vấn đề này kéo dài qua nhiều năm nhưng chưa được cải thiện đáng kể cho thấy các biện pháp đưa ra chưa thực sự có hiệu quả. Không thể phủ nhận Việt Nam thành công trong việc hiện thực hóa chiến lược phát triển nền kinh tế định hướng xuất khẩu của mình, mang lại nguồn thu nhập cho một bộ phận không nhỏ dân cư, đặc biệt là khu vực dân cư yếu thế. Tuy nhiên, Việt Nam cũng nhạy cảm hơn với các biến động trên thị trường thế giới. Mặc dù, những thành tích về số lượng là rất ấn tượng, chất lượng của xuất nhập khẩu vẫn còn là tồn tại lớn với cơ cấu xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu thô hoặc sơ chế, hàng lắp ráp hoặc gia công với giá trị gia tăng thấp, sử dụng chủ yếu nguyên phụ liệu nhập khẩu; nhập siêu tăng mạnh qua từng thời kỳ, nguồn nhập siêu chủ yếu từ Trung Quốc.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, tỷ giá thực đa phương là kênh truyền dẫn thúc đẩy hoạt động xuất khẩu góp phần tăng cường phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP. Biến đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có tác động tích cực đến tăng trưởng GDP. Từ những kết quả đó cho thấy, các nhà hoạch định chính sách cần định hướng hiệu quả với các vấn đề sau đây: Đẩy mạnh phát triển xuất khẩu và hạn chế nhập siêu, quản lý điều hành tỷ giá có hiệu quả và linh hoạt, thực hiện đồng bộ các giải pháp thu hút vốn FDI để phát huy nguồn lực này phục vụ tăng trưởng kinh tế.

Tài liệu tham khảo:

1. Phạm Thị Thanh Bình, (2016), Phát triển bền vững ở Việt Nam: Tiêu chí đánh giá và định hướng phát triển, http://tapchitaichinh.vn;

2. Hiệp, Nguyễn Quang (2013), “Vai trò của các yếu tố nguồn lực đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: Nhìn lại nửa chặng đường phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011 - 2015 và những điều chỉnh chiến lược, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, tr. 209-220;

3. Hiệp, Nguyễn Quang (2014), “Mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế Việt Nam: mô hình vòng xoắn tiến”, Tạp chí kinh tế phát triển, số 210, tháng 12/2014, 21-32;

4. Ahmad, D., & Ahmad, J. (2018), An empirical analysis of agricultural export on economic growth: A case study of Pakistan, International Journal of Advanced and Applied Sciences, 5(2), 25-32;

5. Asteriou, D., & Hall, S. G.,(2007), "Applied Econometrics: A Modern Approach Using Eviews and Microfit Revisited Edition", Palgra ve Macmillan, Newyork;

6. Dritsaki, C., & Stiakakis, E. (2014), Foreign direct investments, exports, and economic growth in Croatia: A time series analysis. Procedia Economics and Finance, 14, 181-190;

7. Goh, Soo Khoon, Sam, Chung Yan., & McNown, Robert (2016), Re-examining Foreign Direct Investment, Exports, and Economic Growth in Asian Economies Using a Bootstrap ARDL Test for Cointegration.Journal of Asian Economics http://dx.doi.org/10.1016/j.asieco.2017.06.001;

8. Hye, Q.M.A., Wizarat, S. and Lau, W.Y. (2013), “Trade-led growth hypothesis: An empirical analysis of South Asian countries”, Economic Modelling, 35 (2013), pp. 654–660;

9. Majid Mahmoodi & Elahe Mahmoodi (2016), “Foreign direct investment, exports and economic growth: evidence from two panels of developing countries”, Economic ResearchEkonomska Istraživanja, 29:1, 938-949, DOI: 10.1080/1331677X.2016.1164922;

10. Mishra, P. K. (2011), “The Dynamics of Relationship between exports and economic growth in India”, International Journal of Economic Sciences and Applied Research, 4 (2), pp. 53-70.

(*) ThS. Lê Hằng Mỹ Hạnh, Trường Đại học Ngoại thương, Cơ sở II tại TP. Hồ Chí Minh.

(**) Bài đăng Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 7/2021.