Đội ngũ trí thức Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Trí thức Việt Nam là một đội ngũ đặc biệt trong xã hội. Thông qua quá trình học tập và lao động, họ thâu thái một phần tài sản tinh thần, trí tuệ và văn hóa dân tộc; sáng tạo ra những giá trị mới thúc đẩy xã hội phát triển.

Ở bất kỳ giai đoạn nào trong lịch sử phát triển dân tộc, đội ngũ trí thức Việt Nam cũng thể hiện được vai trò to lớn của mình trong xây dựng cũng như bảo vệ đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi nhận và đánh giá cao vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam: “Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững”1.

Trong bối cảnh đất nước ta đang hướng đến mục tiêu xây dựng đất nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; quá trình hội nhập với quốc tế ngày càng sâu, rộng; Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nhanh trên thế giới và ngày càng tác động mạnh mẽ đến nước ta, vai trò của đội ngũ trí thức ngày càng quan trọng và có ý nghĩa quyết định.

Thực hiện vai trò góp phần xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Tham gia vào quá trình xây dựng đường lối lãnh đạo của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam thực hiện thể hiện ở những nội dung sau:

Đội ngũ trí thức Việt Nam giữ vai trò nòng cốt trong việc cung cấp luận cứ khoa học góp phần xây dựng đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có đúng đắn, phù hợp với đất nước hay không phụ thuộc rất nhiều vào cơ sở khoa học của đường lối, chính sách, pháp luật đó.

Là những người có hiểu biết sâu, rộng, thông thạo nhất về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đội ngũ trí thức thông qua những nghiên cứu của mình, cung cấp những luận cứ khoa học cho quá trình xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Những ý kiến từ kết quả hoạt động của các trí thức Việt Nam, nhiều nội dung góp phần làm luận cứ khoa học cho hoạch định đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.

Một trong những nội dung lớn mà đội ngũ trí thức Việt Nam tham gia xây dựng luận cứ cho hoạch định đường lối, chính sách phát triển đất nước là về những vấn đề của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ngoài ra, đội ngũ trí thức còn nghiên cứu khoa học phục vụ cho xây dựng, đổi mới và hoàn thiện các chính sách và cơ chế quản lý của các ngành, các cấp2.

Đội ngũ trí thức Việt Nam tham gia công tác tư vấn, phản biện các chính sách, pháp luật của Nhà nước về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam

Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ và Nghiên cứu khoa học Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức Lễ bế giảng Khóa bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Mặt trận (Lớp thứ nhất - Khóa X), tháng 5/2023.

ẢNH: KỲ ANH

Đây là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng, xuất phát từ đặc điểm nghề nghiệp của đội ngũ trí thức. Trước hết, từ khoa học chuyên ngành của mình, trí thức nghiên cứu, góp ý kiến đánh giá, phản biện và giám định về các khía cạnh khác nhau của các dự án và các công trình trọng điểm quốc gia, địa phương. Trí thức đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn bản quan trọng của Đảng (Cương lĩnh, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Báo cáo chính trị…) và của Nhà nước (các Bộ luật, luật, Nghị định…).

Trí thức ngày càng tham gia vào tư vấn, phản biện, giám định về mặt khoa học cho các hoạt động của doanh nghiệp, của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, và của gia đình, cá nhân. Các hội của trí thức (Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật, Liên hiệp các hội Văn hóa - Nghệ thuật…) với thế mạnh là tập trung “chất xám” chuyên ngành và sâu, nên có thuận lợi cho việc tham gia tư vấn, phản biện, giám định xã hội.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang là một hiện thực trên thế giới, là một quá trình phát triển không thể đảo ngược trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Cuộc cách mạng này tác động trên nhiều lĩnh vực với nhiều công nghệ nền tảng mang tính chất bước ngoặt, cách mạng. Những công nghệ mới, kỹ thuật mới này sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho các nước đang tìm kiếm con đường phát triển của mình, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam tiếp cận và tiếp thu, vận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng này phát triển đất nước.

Tuy nhiên, để có thể tận dụng được những cơ hội, hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước trong việc vận dụng những thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phải đúng đắn, phù hợp với xu thế chung của thế giới và phù hợp với thực tiễn phát triển của Việt Nam.

Có được chính sách như vậy, rất cần vai trò tư vấn, phản biện chính sách của đội ngũ trí thức. Đội ngũ trí thức Việt Nam, với vốn hiểu biết sâu rộng, kinh nghiệm phong phú, tư duy độc lập và luôn có chính kiến trong việc luận giải mọi vấn đề của đời sống xã hội, sẽ là lực lượng quan trọng tham gia tư vấn, phản biện các chính sách, pháp luật cụ thể của Nhà nước về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Paul Alexandere đã đưa ra một nhận xét rất chính xác rằng: trí thức - “là một nhà phê bình xã hội, nhìn rõ sự vật, phải suy nghĩ đến cùng và dám phê phán không thương tiếc những gì hiện hữu đang là chướng ngại vật ngăn cản sự vươn tới một trật tự xã hội tốt đẹp hơn, nhân đạo và hợp lý hơn”3.

Nội dung phản biện mà đội ngũ trí thức thực hiện bao gồm việc xem xét, đánh giá, khuyến nghị đối với đường lối, chính sách mà Đảng và Nhà nước nêu ra về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đồng thời, bao gồm cả việc phản biện về các giải pháp, tổ chức thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật liên quan đến Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Phản biện đem lại những luận chứng đánh giá về tính đúng, sai, nên hay không nên, cần hay chưa cần, triển vọng kết quả có thể nhìn thấy hoặc những hệ lụy, hậu quả phát sinh cần phải chủ động phòng tránh hoặc khắc phục trong các quyết sách liên quan tới Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Vai trò tư vấn, phản biện của đội ngũ trí thức Việt Nam mang tính dân chủ, công khai, tự giác và có hàm lượng khoa học cao. Vì vậy, đây là cơ sở quan trọng giúp Đảng, Nhà nước xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy, công tác tư vấn, tham mưu, phản biện đường lối, chính sách cho Đảng và Nhà nước là công việc vô cùng phức tạp, khó khăn đòi hỏi đội ngũ trí thức Việt Nam phải có đủ tri thức, bản lĩnh, trách nhiệm và dũng khí.

Bên cạnh đó, chúng ta thấy hiện nay nhân dân thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách: giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo… Những vấn đề toàn cầu này liên quan đến vận mệnh của loài người và việc giải quyết chúng thật khó khăn, đòi hỏi sự hợp tác và tinh thần trách nhiệm cao của các quốc gia. Từ tính chất của vấn đề này, các quốc gia, các tổ chức quốc tế… phải huy động những nhà bác học, các chuyên gia… vào nghiên cứu, đề xuất các giải pháp.

Giải quyết những vấn đề toàn cầu cũng là để xã hội phát triển bền vững. Phát triển bền vững là tăng trưởng kinh tế đi đôi với giải quyết những vấn đề xã hội, sử dụng tốt tài nguyên thiên nhiên mà không phá vỡ môi trường sinh thái, đáp ứng nhu cầu của hiện tại mà không làm lo lắng đến tương lai… Như vậy, phát triển bền vững phải có những giải pháp với hàm lượng chất xám cao, bằng các yếu tố khoa học và công nghệ hiện đại.

Ngày càng có nhiều nước trên thế giới đưa ra đường lối, chính sách quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư4. Ở nước ta cũng đã có văn bản của Đảng và Nhà nước về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư liên quan trực tiếp, như:

Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4/5/2017 về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nghị quyết số 52- NQ/TW của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ngày 27/9/2019.

Các văn bản này tuy chỉ là bước đầu, nhưng quan trọng, vì cho thấy Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức được xu hướng tất yếu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam.

Thực hiện vai trò trong nâng cao dân trí và giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực cho Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam

Đội ngũ trí thức thông qua nhiều cách khác nhau để trao truyền tri thức đến Nhân dân

Trong hoạt động thực tiễn, những hình thức trao truyền cơ bản có thể kể đến: hệ thống giáo dục từ cấp phổ thông đến đại học, sau đại học; các kênh giáo dục, đào tạo thường xuyên; các phương tiện truyền thông; hội nghị, hội thảo; các ấn phẩm sách, báo, tạp chí...

Quá trình truyền bá tri thức có sứ mệnh kép: một mặt, phổ biến tri thức nhằm nâng cao dân trí; mặt khác, cung cấp nguồn dữ liệu bồi dưỡng phẩm chất của con người, tạo ra những thế hệ công dân thích ứng được với môi trường xã hội trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Đội ngũ trí thức Việt Nam là những người trực tiếp tiếp thu, sáng tạo ra tri thức, công nghệ mới cho đất nước

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ dần xóa bỏ lao động giản đơn, đặt ra yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao, đó là những người lao động có trình độ chuyên môn nghề nghiệp cao, có hiểu biết sâu, rộng về lĩnh vực nghề nghiệp của mình, có khả năng tương tác với các hệ thống máy móc và trí tuệ nhân tạo, kỹ năng sử dụng công nghệ thông minh trên nền tảng internet.

Đội ngũ trí thức, với vai trò là lực lượng chính trong tiếp thu khoa học, công nghệ trên thế giới, nghiên cứu, sáng tạo giá trị mới về khoa học và công nghệ; vừa là những người thầy thực hiện hoạt động đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo ra lực lượng lao động đáp ứng những đòi hỏi, yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Các tác giả cuốn Cách mạng công nghiệp 4.0: vấn đề đặt ra cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam, do Trần Thị Vân Hoa chủ biên, đã lưu ý rằng: “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động ở nhiều quốc gia, nhiều công việc vốn được thực hiện bởi người, nay có thể do máy móc đảm nhận. Con người có xu hướng chuyển sang những công việc mang tính sáng tạo và định hướng dịch vụ nhiều hơn”. Yêu cầu về lao động, đặc biệt là lao động có năng lực thay đổi căn bản.

Cũng trong cuốn sách trên, tác giả đã dẫn ra: “Tại Diễn đàn Kinh tế thế giới 2015 đã nêu 10 kỹ năng cần thiết mà người lao động cần phải có để thích ứng với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: kỹ năng giải quyết vấn đề phức tạp; kỹ năng tư duy phản biện; kỹ năng sáng tạo; kỹ năng quản lý con người; kỹ năng hợp tác với người khác; kỹ năng trí tuệ cảm xúc; kỹ năng phán đoán và ra quyết định; kỹ năng định hướng dịch vụ; kỹ năng đàm phán; kỹ năng linh hoạt trong nhận thức”.

Đội ngũ trí thức Việt Nam góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng những đòi hỏi mới trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang đặt ra những yêu cầu mới cho nguồn nhân lực. Điều đó, đòi hỏi đội ngũ trí thức Việt Nam cũng phải không ngừng tự nâng cao trình độ mọi mặt, vận dụng thành thạo những nền tảng, những hình thức đào tạo mới trên nền tảng của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ của mình.

Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng những đòi hỏi trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là một nhiệm vụ bức thiết. Trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng ta đã thể hiện rõ nhận thức về tầm quan trọng của việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao:

“Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững”.

Không lực lượng nào ngoài đội ngũ trí thức có thể đảm nhận được nhiệm vụ trang bị tri thức, nâng cao trình độ chuyên môn, nghề nghiệp cho lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thực hiện vai trò trong sáng tạo khoa học - công nghệ phù hợp bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam

Đội ngũ trí thức Việt Nam tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ mới của nước ngoài, chọn lọc và làm chủ những công nghệ mới nhất, phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Trong quá trình tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ mới của nước ngoài, đội ngũ trí thức Việt Nam phải phát huy trí tuệ của mình, chọn lọc và làm chủ những công nghệ mới nhất, phù hợp nhất với điều kiện phát triển của đất nước, nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.

Quá trình tiếp thu khoa học công nghệ thế giới, đội ngũ trí thức phải hướng đến mục tiêu nắm vững công nghệ, làm chủ công nghệ; tức là phải hiểu được bản chất của công nghệ, phương pháp, trình tự thực hiện công nghệ, bí quyết công nghệ. Trong quá trình này, đội ngũ trí thức trong nước cần phải biết kết hợp với đội ngũ trí thức Việt Nam ở nước ngoài, tận dụng sự hiểu biết về khoa học và công nghệ của họ để rút ngắn thời gian tiếp cận khoa học - công nghệ mới của thế giới.

Đội ngũ trí thức Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu, phát triển và sáng tạo khoa học - công nghệ, ứng dụng khoa học - công nghệ mới vào sản xuất, đáp ứng yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Cùng với tiếp thu, làm chủ những thành tựu khoa học - công nghệ mới của nước ngoài, đội ngũ trí thức Việt Nam còn đóng vai trò quyết định trong nghiên cứu, phát triển và sáng tạo khoa học - công nghệ, ứng dụng khoa học - công nghệ mới vào sản xuất đáp ứng yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Đây là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của đội ngũ trí thức, nhằm góp phần vào sự phát triển liên tục, bền vững của đất nước. Bởi vì, trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chỉ quốc gia nào vươn lên trong nghiên cứu, phát triển và sáng tạo khoa học - công nghệ mới nắm bắt được cơ hội phát triển.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra yêu cầu cho đội ngũ trí thức trong phát triển một số lĩnh vực khoa học - công nghệ như: công nghệ thông tin; phân tích, quản lý và xử lý dữ liệu lớn; trí tuệ nhân tạo, Internet kết nối vạn vật; robot tự hành; công nghệ sinh học; công nghệ vật liệu mới; in 3D; thực tế ảo.

Nghiên cứu khoa học là một vai trò cơ bản của trí thức. Trí thức là nòng cốt trong cả nghiên cứu cơ bản (R), ứng dụng và triển khai (RD) và hình thành các dự án (P). Khoảng cách giữa các khâu ấy trước đây rất xa nhau, nhưng đã được rút ngắn dần theo bước tiến của các cuộc cách mạng công nghiệp. Đến Cách mạng công nghiệp lần thứ tư thì hầu như không còn khoảng cách, nghĩa là nghiên cứu và ứng dụng, chuyển giao công nghệ gần như đồng thời, kế tiếp nhau.

Hơn nữa, khi vừa được ứng dụng, chuyển giao công nghệ thì công nghệ đó đã lại lạc hậu và ngay sau đó đã có sản phẩm lý tưởng hơn thay thế. Do vậy, một mặt, các bộ phận trí thức tương ứng với các khâu này liên kết rất chặt chẽ trong hoạt động; mặt khác, có xu hướng, một bộ phận trí thức, một tổ chức, đơn vị trí thức làm cả nghiên cứu và ứng dụng, triển khai.

Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vừa qua, trí thức nước ta đã phát huy tốt vai trò nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ. Trí thức khoa học xã hội và nhân văn đã cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần xây dựng hệ thống quan điểm phát triển đất nước; khẳng định lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo tồn các giá trị và bản sắc dân tộc Việt Nam.

Trí thức khoa học tự nhiên đã có bước phát triển trong nghiên cứu cơ bản, tạo cơ sở cho việc hình thành một số lĩnh vực khoa học và công nghệ đa ngành mới, góp phần nâng cao trình độ và năng lực của khoa học cơ bản.

Trí thức khoa học và công nghệ đã đóng góp tích cực vào việc nâng cao năng suất, chất lượng hàng hóa và dịch vụ; cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; một số lĩnh vực đã tiếp cận trình độ tiên tiến khu vực và thế giới.

Kết quả nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ ấy của đội ngũ trí thức nước ta rất cần phát huy và đổi mới để tiếp cận với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ thay đổi quan niệm về đổi mới công nghệ và xuất hiện những hướng nghiên cứu rất khác hiện nay, nhất là ở nước ta. Giá trị gia tăng của sản xuất phụ thuộc chủ yếu vào việc gia công vật liệu thành sản phẩm. Đưa vào đó phần mềm hoặc hệ thống điều khiển.

Dựa vào nhu cầu của người tiêu dùng qua hệ thống kết nối Internet, nhà sản xuất sẽ chỉ cập nhật phần mềm chứ không cần bán sản phẩm phần cứng khác. Và không chỉ sản phẩm, mà cả thiết bị sử dụng trong sản xuất cũng chỉ cần cập nhật phần mềm để thêm tính năng mới mà không cần thay thế chi tiết hay bộ phận.

Trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ba nhóm khoa học - nghiên cứu công nghệ là: vật lý, số hóa và sinh học liên quan chặt chẽ với nhau và với các công nghệ khác.

Hiện nay vai trò của đội ngũ trí thức nước ta trong nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ chưa thể trực tiếp và nhiều những hướng công nghệ có tính phổ quát thế giới. Do vậy, tăng cường năng lực tiếp cận, làm chủ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là nhiệm vụ hết sức quan trọng, với phân công lao động xã hội, đội ngũ trí thức Việt Nam có vai trò chính, nòng cốt trong thực hiện.

Thực hiện vai trò trong xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam phù hợp với bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Đội ngũ trí thức Việt Nam tham gia giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc phù hợp với bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Việt Nam sở hữu một nền văn hóa đa dạng, phong phú, phát triển với những giá trị bền vững. Các giá trị đó phản ánh đậm nét tinh thần nhân văn, nhân đạo vì con người của dân tộc Việt Nam. Đó là kết quả được hình thành, kết tinh trong lịch sử đấu tranh để bảo tồn, giữ gìn và sáng tạo của nhân dân ta trong quá trình dựng nước và giữ nước.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang có những tác động mạnh mẽ, sâu rộng đến mọi mặt của đời sống xã hội. Nền văn hóa Việt Nam cũng chịu sự tác động mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Bên cạnh cơ hội học hỏi, tiếp thu những giá trị văn hóa đa dạng trên thế giới, nền văn hóa Việt Nam cũng đứng trước nhiều thách thức.

Dựa trên nền tảng kết nối Internet và công nghệ thông tin, đã mở rộng sự kết nối, giao tiếp giữa các nền văn hóa trên thế giới, có xu hướng làm mờ đi ranh giới giữa các dân tộc về văn hóa.

Quá trình quốc tế hóa và toàn cầu hóa cũng được đẩy nhanh trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nhờ đó, các nước lớn cũng gia tăng ảnh hưởng về chính trị và văn hóa lên mọi quốc gia, dân tộc nhỏ. Trong bối cảnh đó, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa Việt Nam là một nhiệm vụ sống còn, giúp đất nước tiếp tục phát triển mà không bị hòa tan vào các nền văn hóa lớn của thế giới.

Trí thức Việt Nam, với những phẩm chất và chức năng vốn có của mình, sẽ là lực lượng quan trọng cùng với toàn thể nhân dân lao động giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của đội ngũ trí thức Việt Nam được thực hiện bằng nhiều hoạt động như: đấu tranh, ngăn chặn, loại bỏ những hiện tượng “văn hóa” ngoại lai không phù hợp, những hiện tượng “phản văn hóa”; phổ biến, giáo dục và bảo vệ những giá trị văn hóa của dân tộc; khôi phục các giá trị văn hóa đang bị mai một.

Đội ngũ trí thức Việt Nam là chủ thể quan trọng tiếp thu những giá trị văn hóa trên thế giới, làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Tiếp thu những giá trị văn hóa trên thế giới, làm giàu thêm, làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc là một tất yếu khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng vào thế giới, đặc biệt trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Đội ngũ trí thức Việt Nam, với những phẩm chất trí tuệ riêng có của mình, có khả năng nhận biết rõ được những giá trị “chân, thiện, mỹ”, thực hiện có hiệu quả nhất sự kiểm duyệt, phân biệt được những giá trị văn hóa đích thực phù hợp với nền văn hóa Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong tiếp thu những giá trị văn hóa từ bên ngoài.

Quá trình tiếp thu những giá trị văn hóa thế giới, đội ngũ trí thức Việt Nam cũng thể hiện vai trò quan trọng trong đấu tranh, ngăn chặn, loại bỏ các hiện tượng “phản văn hóa”, những yếu tố không phù hợp với bản sắc văn hóa Việt Nam. Việc tiếp nhận những giá trị văn hóa tiên tiến trên thế giới sẽ góp phần làm phong phú nền văn hóa Việt Nam, nâng tầm văn hóa Việt Nam theo hướng hiện đại, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Đội ngũ trí thức Việt Nam tham gia phổ biến các giá trị văn hóa Việt Nam trên thế giới, khẳng định sức sống của nền văn hóa dân tộc trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc phát huy “sức mạnh mềm” của văn hóa dân tộc, khẳng định hình ảnh và sức mạnh Việt Nam trên trường quốc tế, dẫn dắt thành công quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam là một nhiệm vụ không kém phần quan trọng.

Đội ngũ trí thức Việt Nam, với những thế mạnh riêng có của mình, là lực lượng quan trọng tham gia tuyên truyền, phổ biến những giá trị văn hóa Việt Nam đến với các nền văn hóa khác trên thế giới, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa chung của nhân loại. Vai trò này của trí thức Việt Nam thể hiện ở nhiều lĩnh vực hoạt động: thông qua những công trình nghiên cứu của mình, giới thiệu những nét đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam; hoạt động của cộng đồng trí thức Việt Nam ở nước ngoài; tham gia các hoạt động ngoại giao văn hóa với sự trợ giúp của Chính phủ; dịch thuật các tác phẩm văn học, nghệ thuật của Việt Nam.

Đội ngũ trí thức Việt Nam là lực lượng xung kích đấu tranh chống các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ra đời và phát triển trước hết ở những nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất trên thế giới, nó phản ánh một giai đoạn phát triển mới của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Lịch sử các cuộc cách mạng trên thế giới đã chứng minh sự ảnh hưởng về mặt chính trị của các cuộc cách mạng công nghiệp đối với đời sống chính trị thế giới và đời sống chính trị của từng quốc gia dân tộc. Thêm vào đó, các nước tư bản đế quốc cũng muốn lợi dụng Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, lợi dụng ưu thế của Internet, các mạng xã hội... thực hiện diễn biến hòa bình. Trong bối cảnh đó, đội ngũ trí thức Việt Nam là lực lượng xung kích trong việc nhận diện những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Cùng với việc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, đội ngũ trí thức Việt Nam cũng là lực lượng quan trọng trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng. Họ là lực lượng chủ chốt trong nghiên cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng.

Tuyên truyền về khoa học và công nghệ nói chung, về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nói riêng, là trách nhiệm của đội ngũ trí thức, đặc biệt là lực lượng trí thức: nhà báo, giảng viên, nhà tuyên huấn... Công cuộc đổi mới ở nước ta là phong trào cách mạng tự giác, cần sự nhận thức, ủng hộ rồi đi đến hành động của toàn thể người dân.

Nội dung tuyên truyền cần tập trung vào những vấn đề cơ bản của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đó là tính tất yếu của cuộc cách mạng này, hơn nữa, diễn ra với tốc độ nhanh, không thể không nhận thức và ứng xử kịp thời.

Đối với nước ta, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mở ra nhiều cơ hội trong việc nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh trong chuỗi sản phẩm. Tạo ra thay đổi lớn về cách kinh doanh dịch vụ; tạo ra cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; giảm đáng kể chi phí giao dịch, vận chuyển; tạo cơ hội đầu tư hấp dẫn và tiềm năng trong lĩnh vực công nghệ số và Internet, đồng thời cơ hội cho sản xuất công nghiệp với trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến.

Một nội dung tuyên truyền quan trọng là đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Hiện nay, các văn bản này chưa nhiều, nhưng chắc chắn, gần đây sẽ có nhiều hơn. Cần tuyên truyền để nhận rõ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động đến từng con người, từng gia đình, địa phương, cơ quan... Không ai có thể đứng ngoài cuộc cách mạng này. Vì thế, nếu không theo kịp nhịp độ phát triển của nó trên thế giới và khu vực, nước ta sẽ phải đối mặt những thách thức và tác động tiêu cực như: sự tụt hậu về công nghệ, suy giảm sản xuất, kinh doanh; dư thừa lao động trình độ thấp, thiếu nguồn nhân lực trình độ cao, gây rối loạn thị trường lao động truyền thống; mất an toàn an ninh thông tin, xâm phạm bản quyền...

Việc tuyên truyền bằng nhiều hình thức phù hợp đến mọi đối tượng con người Việt Nam, từ các cấp lãnh đạo, quản lý đến người dân; từ Trung ương đến địa phương; từ cơ quan đến doanh nghiệp... Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là cơ hội vàng để Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Như vậy, hiện tại và tương lai, đội ngũ trí thức Việt Nam là một chủ thể quan trọng của cuộc cách mạng này. Điều đó, trên phạm vi thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, đã chứng minh ở các cuộc cách mạng công nghiệp trước đó và kể cả ở Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tuy mới hình thành, nhưng trí thức có vai trò hết sức quan trọng.

Chú thích:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 80-81.

2. Xem: Phan Thanh Khôi: Vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước. Rút trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Lý thuyết cánh tả trong phát triển đất nước, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2016, tr. 249-253.

3. Dẫn theo Phạm Tất Dong, Trí thức Việt Nam, thực tiễn và triển vọng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 26-27.

4. Ví dụ: Trung Quốc có: “Made in China 2025”; Nhật Bản có: “Công nghiệp 4.0”, “Xã hội 5.0” và “Chiến lược hồi sinh Nhật Bản”; Malaysia có: My-I 4.0 (2018); Singapore có: 23 kế hoạch đối số các ngành chế tạo và nhiều chính sách khác; Ấn Độ có: Smart City Mission (1 tỷ USD), trung tâm CMCN 4.0; Indonesia có: “Making Indonesia 4.0”; Thái Lan có: Thailand 4.0 (2017)... Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương: Cách mạng công nghiệp 4.0 - Cơ hội, thách thức và kiến nghị chính sách, Hà Nội, 2019.

* Phan Thanh Khôi - Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

**Nguyễn Thị Tuyết - Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh