Chuyển từ bị động ứng phó sang chủ động phòng ngừa các nguy cơ ô nhiễm

Xin Bộ trưởng cho biết những kết quả nổi bật của ngành tài nguyên và môi trường trong nhiệm kỳ 5 năm 2016-2020 vừa qua?

Trong 5 năm qua, đặc biệt là từ đầu nhiệm kỳ, ngành tài nguyên và môi trường đã đứng trước những thời điểm hết sức khó khăn. Các lĩnh vực quản lý của ngành, nhất là môi trường luôn có những điều bị động, bất ngờ. Tại nhiều địa bàn khác nhau, ở nhiều dự án khác nhau, các sự cố môi trường thường xảy ra. Đáng chú ý nhất là sự cố ô nhiễm môi trường biển ở 4 tỉnh miền Trung do Formosa gây ra.

Bên cạnh đó, các lĩnh vực khác như đất đai cũng thường xuyên đứng đầu trong top lĩnh vực nóng bỏng, có số lượng người dân khiếu kiện, khiếu nại rất đông. Trong lĩnh vực tài nguyên khoáng sản, tình trạng khai thác khoáng sản chưa được quản lý chặt chẽ, còn xảy ra khai thác trái phép và thiếu hiệu quả trong sử dụng; quá trình khai thác cũng gây ra các vấn đề về môi trường.

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà. Ảnh: Khương Trung.

Trong 5 năm vừa qua, biến đổi khí hậu tác động ngày càng lớn và nghiêm trọng. Thời tiết cực đoan xảy ra trên khắp cả nước như rét đậm, rét hại, sạt lở, lũ ống, lũ quét ở các vùng núi cao phía Bắc, hạn hán ở Nam Trung bộ và Tây Nguyên và xâm nhập mặn diễn ra liên tục ở đồng bằng sông Cửu Long do tác động “kép” của biến đổi khí hậu cũng như việc sử dụng nước ở thượng nguồn sông Mekong…

Nói như vậy để thấy các lĩnh vực mà ngành quản lý luôn đứng trước những vấn đề hết sức bị động, bất ngờ và lúng túng. Chính vì thế, chúng tôi đã tập trung để giải quyết các sự cố, giải quyết các vấn đề mang tính chất sự vụ, ứng phó với các vấn đề mới nảy sinh.

Từ năm 2016, chúng ta bắt đầu chuyển sang giai đoạn mới. Trung ương, Bộ Chính trị đã có những chủ trương xây dựng chính sách mới theo hướng phát triển kinh tế không ảnh hưởng đến môi trường, phát triển kinh tế dựa trên quản lý chặt chẽ tài nguyên và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu nên đã đạt được những kết quả to lớn. Đây cũng là bài học hết sức quan trọng đối với công tác quản lý tài nguyên và môi trường. Chúng ta thấy nếu còn quan điểm, nhận thức là phát triển trước, xử lý môi trường sau thì bài toán về kinh tế sẽ phải trả giá rất đắt.

Thời gian qua, bằng các Nghị quyết như Nghị quyết về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển đã làm thay đổi cơ bản về nhận thức và tư duy quản lý, trong đó lấy tiêu chí phát triển kinh tế - xã hội dựa trên sự hài hòa, dựa trên nền tảng bền vững về hệ sinh thái tự nhiên.

Với nhiều chính sách, Nghị định, công tác quản lý tài nguyên và môi trường đã chuyển biến từ bị động, bất ngờ sang chuẩn bị bài bản, đồng bộ các cơ chế chính sách; đồng thời trong quá trình đó, nhận thức của người dân về môi trường được nâng lên. Nhờ đó cơ bản thay đổi được tư duy, quan điểm và đã xác định được tầm quan trọng của môi trường, lấy môi trường là một trong ba trụ cột để phát triển kinh tế - xã hội.

Đặc biệt, xác định được phương pháp quản lý, mô hình về kinh tế xanh, tăng trưởng xanh, kinh tế cacbon thấp và kinh tế tuần hoàn là nhiệm vụ hết sức chủ đạo, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng bền vững. Tức là thay đổi từ kinh tế “nâu,” năng lượng “nâu” sang năng lượng “xanh” và kinh tế bền vững; trong đó môi trường có vai trò tác động và tiên phong. Bên cạnh đó nhiều giải pháp đồng bộ khác, như ứng dụng công nghệ thông tin là nhiệm vụ quan trong, ngành tài nguyên là một trong những bộ ngành đi đầu trong xây dựng Chính phủ số, 50% dịch vụ công hiện nay thực hiện trực tuyến. Đây là giải pháp tiếp tục giai đoạn tới.

Trong vòng 5 năm qua, có trên 950.000 tỷ đồng đóng góp vào thu ngân sách. Riêng năm 2020, thu từ đất đai đã gấp 2 lần so với năm 2015. Tôi khẳng định rằng việc thu từ đất hiện nay đã được tính toán dựa trên những vấn đề về hiệu quả sử dụng đất đai. Khoảng 230.000 héc-ta đất đã được chuyển sang để phục vụ phát triển kinh tế, gần 1 triệu héc-ta trước đây chưa sử dụng đã được đưa vào sử dụng để phát triển rừng; hàng trăm nghìn héc-ta ở các dự án chậm sử dụng hoặc sử dụng kém hiệu quả cũng đã được đưa vào phát triển.

Nguồn lực tài nguyên và môi trường đã được khai thác hiệu quả. Đây là bước đi vững chắc từ bị động sang chủ động để ngành tài nguyên và môi trường phù hợp hơn với kinh tế thi trường và trở thành ngành kinh tế quan trọng của đất nước.

Như Bộ trưởng vừa đề cập, thời gian qua đã xảy ra một số sự cố gây ô nhiễm như Formosa. Vậy sau đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có những điều chỉnh cơ chế chính sách, giải pháp quản lý như thế nào?

Chúng tôi xác định ngay từ chủ trương đầu tư, quy hoạch phát triển, trong quá trình thẩm định sơ bộ và đánh giá tác động môi trường... chúng ta phải làm thực chất, làm kỹ và dựa trên đánh giá về trình độ công nghệ, dựa trên kinh nghiệm của thế giới bởi chúng ta không có đầy đủ thông tin lựa chọn công nghệ thân thiện môi trường.

Thứ hai, chúng tôi xác định rất rõ trách nhiệm của doanh nghiệp trong quá trình đầu tư để có thể đánh giá, dự báo và nhận dạng được các tác động có thể xảy ra, đặc biệt là khí thải, nước thải và chất thải rắn. Cùng với đó, yêu cầu cụ thể giám sát chặt chẽ các nguồn thải, tính toán đến giải pháp kỹ thuật để phòng ngừa sự cố môi trường. Chúng tôi cũng phân ra 17 loại ngành công nghiệp, xác định quy mô và tính chất nguy hiểm, qua đó xác định các trường hợp để giám sát đặc biệt.

Một bài học quan trọng nữa là sự tham gia giám sát của người dân và trách nhiệm của chính quyền địa phương. Khi các vấn đề đã nhận dạng được tác động sẽ đưa ra được các yêu cầu, đòi hỏi các dự án phải công khai thông tin để người dân để người dân giúp chúng ta “tai mắt” phát hiện và kịp thời có giải pháp, xử lý. Đặc biệt, ngay từ khi làm quy hoạch phát triển vùng, quy hoạch liên quan đến môi trường cần có sự tính toán để không xảy ra các sự cố môi trường trong tương lai.

Thưa Bộ trưởng, năm 2020 là năm đánh dấu nhiều thành tựu của ngành tài nguyên và môi trường, trong đó Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi mới được Quốc hội thông qua sẽ tạo những đột phá gì trong quản lý của ngành thời gian tới?

Cũng phải nhìn nhận rằng những việc chúng tôi đã thực hiện được trong thời gian qua mới chỉ là xây dựng những nền tảng ban đầu, mà không phải tất cả các lĩnh vực đều làm được.

Đối với lĩnh vực môi trường, chúng ta đã có Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, đã có những chủ trương quan trọng. Chúng ta cũng đã có Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và sẽ có hiệu lực từ tháng 1/2022. Đối với môi trường - một trong 3 trụ cột quan trọng của phát triển bền vững, chúng tôi sẽ tập trung triển khai thực hiện Luật Bảo vệ môi trường, trong đó lấy người dân làm nòng cốt, tham gia thực hiện nhưng đồng thời cũng là người giám sát về môi trường.

Khi mỗi người dân đều có ý thức, đoàn kết, có quyết tâm cao và coi việc bảo vệ môi trường quan trọng giống như phòng chống đại dịch COVID-19 thì công tác bảo vệ môi trường, phát triển bền vững đất nước theo hướng thích ứng với biến đổi khí hậu thời gian tới sẽ đạt được những bước tiến lớn, tăng trưởng nhanh.

Điều tôi luôn luôn tin rằng những vấn đề người dân, doanh nghiệp còn vướng mắc trong thời gian qua đã được đưa vào luật dựa trên chủ trương quan điểm, chính sách cụ thể. Nếu chúng ta thực hiện Luật Bảo vệ môi trường 2020 tốt, dần dần sẽ giải quyết được những vướng mắc và đạt được yêu cầu của người dân cũng như doanh nghiệp.

Trong luật này người dân, doanh nghiệp là chủ thể, chúng tôi lắng nghe ý kiến người dân để họ trực tiếp tham gia và thay đổi nhận thức, người dân và doanh nghiệp sẽ tham gia từ hoạch định chính sách đến giám sát, phản biện chủ trương.

Đặc biệt, vấn đề quan trọng nhất là thay đổi từ quản lý bằng hành chính chuyển sang quản lý bằng các công cụ kinh tế nên Luật Bảo vệ môi trường đã đưa ra nhiều chế định để quá trình quản lý dựa trên việc tính toán phân tích giữa lợi ích trong vấn đề môi trường với phát triển. Luật cũng xác định công cụ quan trọng như quy hoạch môi trường là căn cứ xem xét, quyết định các quy hoạch và chiến lược phát triển khác.

Đến thời điểm này, Bộ trưởng còn điều gì trăn trở?

Tôi còn rất nhiều trăn trở, vì lĩnh vực quản lý tài nguyên và môi trường rất rộng lớn, để thực hiện trong 1 sớm một chiều thì khó, vì việc thực hiện còn phụ thuộc nhiều sự tham gia các lĩnh vực kinh tế khác.

Với những lĩnh vực tài nguyên và môi trường hiện nay qua trọng nhất là thực hiện theo nền kinh tế thị trường. Tài nguyên là tài sản, nguồn lực của quốc gia, làm sao chúng ta có thể hoạch định, lượng hóa được như tiền bạc, điều này đòi hỏi công tác điều tra đánh giá phải nhiều mới đat được trong khi nguồn lực đầu tư cho đánh giá cơ bản còn ít.

Trong lĩnh vực ứng phó với biến đổi khí hậu và khí tượng thủy văn. Biến đổi khí hậu đang ngày càng trở nên cực đoan và khó đoán định, đang đặt ra gánh nặng lớn lên ngành tài nguyên môi trường và khí tượng thủy văn mỗi mùa mưa lũ.

Vì thế, vấn đề đặt ra trong thời gian tới là làm sao tăng cường khả năng dự báo một cách chính xác hơn, đưa ra những cảnh báo kịp thời hơn, cũng như đánh giá được sự biến đổi của khí hậu để từ đó có thể đưa ra được những quy hoạch tổng thể, chuyển từ bị động ứng phó sang chủ động thích ứng. Điều này đòi hỏi sự vào cuộc của các bộ ngành, cùng với ngành tài nguyên môi trường và quốc gia khác thống nhất chung mang tính quốc tế.

Nói như vậy, ngành tài nguyên và môi trường là lĩnh vực liên quan đến người dân và là nguồn lực lớn mà để phát triển kinh tế. Do đó việc giải quyết mối quan hệ giữa cân bằng, hài hòa là cấp thiết. Nếu môi trường ô nhiễm thì thế hệ tương lai không còn cơ hội để phát triển, điều này là bài toán khó. Chúng ta cần giải quyết bài bản từ chủ trương của Đảng, Nhà nước và thay đổi tư duy nhận thức người dân, doanh nghiệp, lựa chọn mô hình phát triển để giải quyết từ phòng ngừa là chính còn khi các vấn đề xảy ra rồi thì việc khắc phục rất khó.

Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!

Thu Trang/Báo Tin tức (ghi)